Nghề giấy dó Yên Thái
Trong kho tàng bưu ảnh Việt Nam thời thuộc Pháp có rất nhiều bức với chú thích Village du Papier (Làng Giấy). Điều gì đã thu hút sự chú ý của người Pháp đến vùng đất phía nam Hồ Tây này. Ta sẽ tìm thấy câu trả lời khi sắp xếp các bức ảnh theo trình tự các công đoạn sản xuất giấy dó.
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
Vùng đất ven sông Tô Lịch xưa có nhiều làng làm giấy cổ truyền như Đông Xá, Hồ Khẩu, Nghĩa Đô nhưng nổi tiếng nhất nhất là làng Yên Thái, còn gọi là làng Bưởi, nghề giấy nơi đây được ghi vào sử sách từ thế kỉ XV.
Quang cảnh làng giấy với những lán sản xuất. Người làng Yên Thái chọn ven bờ sông Tô Lịch để làm nơi sản xuất vì các khâu sản xuất giấy cần rất nhiều nước.
Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ cây dó tươi. Cây dó chỉ có ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, người ta phải ngược sông Thao đến tận Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang để mua dó và cũng chỉ mua vào tháng 8 đến tháng 10 âm lịch vì đây là thời gian vỏ dó tự tróc ra nên mới thu hoạch được. Dó mang về, lột tiếp lớp vỏ đen, lấy lượt vỏ trắng ngâm nước vôi 24 tiếng mùa hè, 36 tiếng mùa đông.
Phụ nữ và các bé gái tuốt dó nguyên liệu.
Sau khi ngâm, dó được vớt ra, bó thành từng mớ, rồi lại được tiếp tục ngâm vào các bể với nước vôi đặc từ 3 - 5 giờ.
Người làng Yên Thái thường đắp lò nấu dó bên bờ sông Tô Lịch để tiện việc ngâm, dặm, đãi vỏ dó.
Khi vỏ dó chín, người ta vớt ra đem ngâm cho hết vôi, nhặt bỏ từng mấu nhỏ còn sót lại. Sau đó đem đi rửa, rồi cho vào bể ngâm thêm 15-20 ngày. Sau nhiều lần ngâm, nấu cuối cùng được một loại xơ trắng muốt, đấy chính là chất liệu tinh khiết để làm ra giấy.
Công việc giã dó rất vất vả, chỉ đàn ông mới đảm đương nổi.
Đằng sau nhịp chày Yên Thái nện trong sương là sự khó nhọc của người thợ làm giấy: Giã nay rồi lại giã mai / Đôi chân tê mỏi, dó ơi vì mày
Sau khi giã bột dó sẽ được nắm chặt
... đem đãi rửa sạch thêm một lần nữa.
Sông Tô Lịch rất thích hợp cho công việc cần nhiều nước này
Sông Tô Lịch rất thích hợp cho công việc cần nhiều nước này
Sẽ rất khó hiểu những bức ảnh này miêu tả công việc gì nếu không biết quy trình sản xuất giấy
Tuy dùng từ khác nhau, nhưng chú thích trên những bức ảnh này đều giải thích đây là khâu làm sạch bột
Tiếp theo, bột quánh được thả vào tàu seo. Tàu seo là một bể nước có pha sẵn loại keo bằng nhựa cây mò (có tác dụng ngăn cho các tờ giấy không dính vào nhau). Vữa dó thả vào đây sẽ thành một thứ nước sền sệt. Độ lỏng hay đặc của hỗn hợp này sẽ được pha tùy theo loại giấy.
Dụng cụ để tạo ra các trang giấy là chiếc liềm seo. Liềm được làm bằng cật nứa ngâm, chẻ nhỏ như sợi chỉ, mỗi nan dài 60 - 70 phân (tương đương chiều dài của ống nứa đã bỏ đầu mặt), nan để mộc bột giấy sẽ không bám, do đó phải đem hun khói, kĩ thuật hun rất công phu, người ta dùng mùn cưa trộn với phân bò để đốt, vì chất liệu này cháy chỉ có khói chứ không bốc thành ngọn lửa. Công đoạn tiếp theo là dệt mành seo, tương tự như cách dệt mành mành nhưng dụng cụ nhỏ hơn. Chỉ dùng để dệt se bằng tơ tằm nên chắc, bền và chịu được nước.
Người ta dìm liềm seo vào trong bể, chao đi chao lại. Xơ dó kết lại với nhau trên liềm seo như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy. Khâu seo giấy tuy nhẹ nhàng, nhưng phải khéo léo, kiên trì nên phụ nữ thường đảm nhiệm công việc này. Họ đứng bên tàu seo, hai tay dùng liềm seo múc nước bột giấy rồi gác lên “đòn cách” bằng tre trên mắt tàu seo cho nước rỏ xuống hết, chỉ còn bột giấy đọng lại trên liềm. Nước khô dần, bột giấy se lại, trang giấy hiện ra.
Giấy seo xong còn ướt xếp chồng lên nhau gọi là uốn
hoặc được chế tạo rất thô sơ
Giấy ép xong được bóc, đem xấy hoặc phơi khô và miết phẳng
(Phụ ảnh chụp cùng thời điểm với bức trên)
Giấy dó có nhiều kích thước khác nhau, cỡ lớn nhất là 60 x 80 và nhỏ nhất là 20 x 30. Liên kết mạng của xơ dó làm cho tờ giấy xốp, nhẹ, dai. Quy trình sản xuất thủ không có độ axít tạo cho giấy tuổi thọ tới 500 năm.
Cùng với những lò nấu, đìa ngâm đãi Làng Giấy còn nổi tiếng với những chiếc giếng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
Kìa giấy Yên Thái, như kia
Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh
Bức ảnh cuối cùng nằm trong bộ ảnh của Georges Auguste Marbotte, người tham gia xây dựng tuyến đường sắt Vân Nam. Tuy chỉ ghé qua Hà Nội trên đường sang Vân Nam, nhưng ông cũng kịp ghé thăm Làng Giấy. Điều này chứng tỏ sức lôi cuốn của làng nghề này đối với các kiều dân Pháp.
Nhận xét
Đăng nhận xét