Hà Nội Xưa - Phố Hàng Chiếu
Phố Hàng Chiếu (Rue Jean Dupuis) dài 275m, nằm trong
khu vực phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm. Phố nối từ cửa ô Quan Chưởng đến ngã
tư Hàng Đường - Đồng Xuân. Tính từ phía ô Quan Chưởng có 3 phố rẽ vào Hàng Chiếu
là Ô Quan Chưởng, Thanh Hà và Đào Duy Từ. Đầu kia có 3 phố là Hàng Đường, Đồng
Xuân và Hàng Mã. Phố cắt và dẫn qua các phố Nguyễn Thiện Thuật và Hàng Giầy.
Trên phố còn có lối rẽ vào ngõ Đồng Xuân, thông sang với phố Cầu Đông.
Phố Hàng Chiếu trên bản đồ Google được vẽ chạy thẳng ra
đường Trần Nhật Duật, nhưng trên thực tế phố có hai đoạn với hai tên khác nhau:
Đoạn từ Đồng Xuân đến cửa Ô Quan Chưởng là phố Hàng Chiếu và đoạn ngoài cửa ô
là phố Ô Quan Chưởng.
Tấm hình trên được vẽ lại từ bức ảnh được coi là cổ nhất về phố Hàng Chiếu. Nó phù hợp với những miêu tả của những người Pháp đặt chân tới Hà Nội cuối thể kỉ XIX: “Không những người ta làm mặt tiền kín mít mà còn che đậy nó bằng một chái, chìa cái mái tranh ra đường; thành thử phố xá chỉ còn như những con đường hào chật chội chen chúc những người và đôi khi khó có thể cưỡi ngựa đi qua." (Paul Bourde, De Paris au Tonkin, 1884)
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc:
“Hàng Chiếu” có lẽ là cách định danh đúng hơn cả nếu so với 2 cái tên đã từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và một theo cách gọi của dân là “Phố Mới”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” (Phố chiếu cói).
Là cửa ngõ đi từ sông vào phần “thị” để vào phần” thành” của kinh đô xưa qua Cửa Đông, đủ thấy cái con phố ngắn này quan trọng như thế nào. Vì thế mà tấm ảnh được coi là cổ nhất được Bác sĩ Hocquard chụp để in trong cuốn sách của mình, thấy con phố này giống một đồn luỹ hơn là một khu dân cư hay thương mại.
Và lịch sử đã chứng minh, khi lái buôn thực dân Jean Dupuis (tên Hán- Việt là Đồ Phổ Lỗ) ra Bắc kỳ lấy lý do tìm đường ngược sông Hồng sang Trung Quốc, đã ghé vào cửa Ô Đông Hà, thành Hà Nội giở trò khiêu khích kiếm cớ cho cuộc chinh phục sau này.
Vì thế mà sau khi đã biến Hà Nội thành “đất bảo hộ”, rồi trở thành “nhượng địa”, người Pháp đã đặt tên phố này là “Jean Dupuis” để ghi công cho viên lái buôn-gián điệp này. Nhưng dân thì vẫn quen gọi là “phố Mới”, bởi lẽ khi có giao thương với người Pháp thì đây trở thành nơi cho Hoa kiều hay Pháp kiều đến mở chỗ giao dịch.
Mặt khác, trận cháy phố Đông Hà đúng vào năm nhượng đất cho Pháp lập thành phố (1888) khiến nhà cửa đều mới xây lại không theo kiểu cũ như các phố cổ ở xung quanh.
Phố vừa chạy thẳng ra cửa ô, lại kề chợ Đồng Xuân nên tấp nập người qua lại nhưng không phải chốn để nhà giàu lâp nghiệp. Vì thế, nó vẫn mang tính chất như cửa ngõ xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ hơn là kinh doanh.
Ngày xưa, nói đến phố này là nhắc đến Nhà Vạn Bảo chuyên cầm đồ và cho vay lãi, cũng như nơi tuyển người đi làm vú em, con ở hay mộ phu đi các nhà máy, đồn điền…
Đoạn phố phía ngoài cửa ô còn những cửa hàng lụp xụp bán củ nâu và than củi đưa từ miền ngược về rồi đổ hàng từ bến sông Hồng lên chợ Đồng Xuân.
“Hàng Chiếu” có lẽ là cách định danh đúng hơn cả nếu so với 2 cái tên đã từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và một theo cách gọi của dân là “Phố Mới”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” (Phố chiếu cói).
Là cửa ngõ đi từ sông vào phần “thị” để vào phần” thành” của kinh đô xưa qua Cửa Đông, đủ thấy cái con phố ngắn này quan trọng như thế nào. Vì thế mà tấm ảnh được coi là cổ nhất được Bác sĩ Hocquard chụp để in trong cuốn sách của mình, thấy con phố này giống một đồn luỹ hơn là một khu dân cư hay thương mại.
Và lịch sử đã chứng minh, khi lái buôn thực dân Jean Dupuis (tên Hán- Việt là Đồ Phổ Lỗ) ra Bắc kỳ lấy lý do tìm đường ngược sông Hồng sang Trung Quốc, đã ghé vào cửa Ô Đông Hà, thành Hà Nội giở trò khiêu khích kiếm cớ cho cuộc chinh phục sau này.
Vì thế mà sau khi đã biến Hà Nội thành “đất bảo hộ”, rồi trở thành “nhượng địa”, người Pháp đã đặt tên phố này là “Jean Dupuis” để ghi công cho viên lái buôn-gián điệp này. Nhưng dân thì vẫn quen gọi là “phố Mới”, bởi lẽ khi có giao thương với người Pháp thì đây trở thành nơi cho Hoa kiều hay Pháp kiều đến mở chỗ giao dịch.
Mặt khác, trận cháy phố Đông Hà đúng vào năm nhượng đất cho Pháp lập thành phố (1888) khiến nhà cửa đều mới xây lại không theo kiểu cũ như các phố cổ ở xung quanh.
Phố vừa chạy thẳng ra cửa ô, lại kề chợ Đồng Xuân nên tấp nập người qua lại nhưng không phải chốn để nhà giàu lâp nghiệp. Vì thế, nó vẫn mang tính chất như cửa ngõ xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ hơn là kinh doanh.
Ngày xưa, nói đến phố này là nhắc đến Nhà Vạn Bảo chuyên cầm đồ và cho vay lãi, cũng như nơi tuyển người đi làm vú em, con ở hay mộ phu đi các nhà máy, đồn điền…
Đoạn phố phía ngoài cửa ô còn những cửa hàng lụp xụp bán củ nâu và than củi đưa từ miền ngược về rồi đổ hàng từ bến sông Hồng lên chợ Đồng Xuân.
Sau khi chiếm được Hà Nội vào
năm 1883, rất đông người Pháp đã chọn khu vực phố Hàng Chiếu làm chỗ lập những
cơ sở kinh doanh vì tiện đường từ bờ sông lên. Thời đó, phía đầu phố là nơi
chuyên buôn súng ống đạn dược cho quân đội Pháp.
Nếu ảnh trước ta bắt gặp bóng dáng những thương gia Pháp
đứng trước nhà, thì trong dòng người tấp nập này dễ dàng nhận ra cái đuôi sam
tóc của Hoa kiều.
Cụ già bán chiếu
Phố Hàng Chiếu. Ảnh Gunther Van Assche
Hoài niệm phố Hàng Chiếu
xưa của Nguyễn Văn Uẩn:
Phố Mới có ba địa
điểm đánh dấu đặc tính của đường phố này là: nhà máy dệt của Bourgouin Me FEire,
hai hãng buôn xuất nhập khẩu Magnabar và Daurelle, nhà Vạn Bảo và chợ “đưa
người”.
Nhà máy dệt Bắc Qua: Sau chợ Đồng Xuân có một
bãi rộng và một cái hồ lớn, hồ này sau được lấp liền với bãi. Năm 1884, công ty
xuất nhập vải sợi xây một nhà máy dệt khá lớn, người ta thường gọi là nhà máy
Bắc Qua. Nhà máy có ống khói cao, bể chứa nước lớn, máy nước suốt ngày đổ xuống
rào rào, có xưởng lợp tôn, nhà kho, có máy phát điện riêng, điện chạy máy và
điện thắp đèn. Nhà máy Bắc Qua dùng tới 200 công nhân hầu hết là nữ. Văn phòng
nhà máy Bắc Qua đặt ở một ngôi nhà lớn cửa trước quay ra Phố Mới (số 72 – 74 –
76 Hàng Chiếu). Năm 1918 hãng Bourgouin Me FEire sát nhập nhà máy sợi Bắc Qua
với nhà máy sợi Nam Định, xưởng và nhà kho Bắc Qua bị phá hủy, chỗ này trở thành
một bãi đất trống, sau dùng làm một bãi bóng tròn của Racing Club gọi là bãi Bắc
Qua.
Hãng Magnabar cũng là một công ty xuất nhập khẩu
mua lại ngôi nhà ở Phố Mới của nhà máy dệt để làm cửa hàng và xưởng may. Hãng
này nhập vải sợi, xuất các hàng mây tre và ren mua của các làng nghề thủ công Hà
Đông bán sang Pháp. Lại buôn bị cói, đồ hàng bằng mây, chiếu, nhận thầu may quần
áo cho lính khố xanh, nhà này thuê hàng trăm công nhân nữ, vừa đạp máy, vừa khâu
tay. Hãng Daurelle ở số nhà 60 – 62 – 64 Phố Mới, chuyên xuất
nhập khẩu hàng vải sợi, nhà máy cũng thầu may quần áo cho lính khố đỏ bằng
ka-ki, nên người ta quen gọi là “Nhà áo vàng”.
Hai nhà thầu may quần áo
nói trên sử dụng nhân công nữ, làm việc không giờ giấc mà công sá đàn bà chẳng
được bao nhiêu. Đã vậy, tổ chức của họ theo lối chia công nhân thành kíp, có cai
đàn bà trông coi. Làm cai thì dễ giàu có vì có thế lực, được tuyển người vào làm
để ăn lễ, ăn bớt vải, chỉ khâu; ăn chặn, ăn gian tiền công của thợ. Có người làm
cai có dăm năm mà tậu được ba nhà gạch ở Hàng Chiếu. còn điều kiện làm việc của
thợ thì khá vất vả, dễ bị cúp phạt tùy sở thích của bọn cai được chủ tin
cậy.
Nhà Vạn Bảo: ở giữa phố có một khu nhà lớn ở góc
Hàng Giầy – Hàng Chiếu bên số lẻ, một khối nhà rộng liền ba gian về mặt phố, bên
trong sâu thông sang đến Ngõ Gạch.
Nhà Vạn Bảo do Hoa kiều thầu với một
nhóm người Pháp được nhà nước cấp phép quản lý nghề cho vay cầm đồ lấy lãi. Nhà
cầm đồ này có liên quan mật thiết với đời sống nhân dân ta. Một số người Hà Nội
và cả người ở các tỉnh, nhà quê, kẻ chợ, túng tiền mang mọi thứ đến cầm và
chuộc, ồn ào suốt ngày. Họ cầm cố từ quần áo, nồi xanh, mâm, thau, đồ thợ đến đồ
nữ trang vàng bạc, số lượng giao dịch cộng lại rất lớn, nhất là vào vụ thu thuế,
tháng cuối năm giáp Tết.
Đồ đạc đem cầm ở nhà Vạn Bảo hạn trong 10 tháng
chịu lãi 2 phần trăm (tức là lãi 24 phân một năm) để quá hạn thì bị mất. Hàng
tháng, tên chủ nhà Tầm Tầm Hàng Trống (nhà thầu bán đồ cũ) đến bán đấu giá các
đồ dùng đem cầm để quá hạn.
Chợ đưa người: Quãng cuối
Phố Mới, bên số chẵn có một ngõ nhỏ đi vào sau chợ Đồng Xuân, chỗ đầu ngõ là nơi
đưa người đi ở. Những người đi ở từ trong làng ra tìm việc làm, nhà hàng cơm rủ
rê vào nhà sẽ có người giới thiệu với chủ. Trong khi chờ việc, có tiền thì trả,
không có tiền thì ký quần áo thế vào, vẫn được trọ, có cơm ăn. Trọ lâu không có
tiền trả thì lên góc chỗ sân sau mà nằm. Có ai thuê sẽ tính nợ và tiền hoa hồng
coi như một thứ hàng hóa, nhiều người ăn cháo trừ bữa để chờ việc làm.
Nghề giới thiệu môi giới thuê người chỉ có từ sau năm 1930. nhà hàng cơm
chứa trọ đầu tiên cho bọn “cơm thầy cơm cô” là số 81 Hàng Chiếu, năm 1936 trở đi
có đến hàng chục người sống về nghề này.
Đầu phố, gần chỗ cửa ô, có một
nhà treo lá cờ vàng mộ phu đi Tân thế giới, đấy là nơi chờ đón những kẻ bất hạnh
cùng đường đến đăng ký.
Hình ảnh Ô Quan Chưởng từ phía phố Hàng Chiếu (bên
trong cửa ô)
Phố Hàng Chiếu đầu thế kỉ XX. Cửa Ô Đông Hà dẫn ra sông
Hồng. Khoảng không gian bờ sông thoáng đãng hiện vòm cửa, chưa xuất hiện hệ
thống cột đèn chiếu sáng
Loạt ảnh này cho thấy, cùng với thời gian, cây bàng đứng gần
cột điện nơi góc phố càng ngày càng nghiêng xuống lòng đường, và nó biến mất ở
bức ảnh cuối cùng.
Năm 1906. Cột đèn trên hè trái cùng loại với trên phố Hàng Tre
Năm 1909. Hàng cây ngoài của ô đã vươn lên khỏi tầm chắn của cửa ô.
Trang phục người trên phố nhiều mầu sáng hơn.
Thời gian trôi qua, cây bàng giờ không còn.
Cùng hiện diện trên đường phố các laọi phương tiện đi lại khác nhau: ngựa, xe kéo, xe đạp
Xe hơi xuất hiện diện trên đường
Hình ảnh đoạn phố phía bờ sông (phố Ô Quan Chưởng)
Năm 1903. Cổng ô chia con phố thành hai đoạn. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Tuy cũng có hệ thống chiếu sáng công cộng, nhưng đoạn phố này (phố Ô Quan Chưởng ngày nay) có nhiều ngôi nhà lụp xụp, trước kia được coi như đất ngoại thành
Dãy nhà tranh vách đất đã
được thay thế bằng nhà xây hai tầng. Chợ họp ngay trên
đường
Bức ảnh thường được dùng để minh hoạ tên phố. Theo sông Hồng
chiếu được chở từ các địa phương về bán ở đây
Năm 1906. Rất thường gặp cảnh
những người phụ nữ gánh nước trên đường phố này. So
với năm 1903, đoạn phố này đã lột xác hẳn: hè đường được lát gạch gọn gàng,
tuy chưa được trồng cây xanh như phía bên trong.
Hai hàng cây bắt đầu được
trồng
Cái cây trên hè phải biến
mất
... rồi được trồng lại...
Nhận xét
Đăng nhận xét