Hà Nội Xưa - Phố Hàng Bè
Phố
hàng Bè (Rue des Radeaux) dài 172m đi từ ngã ba Hàng Mắm - Hàng Bạc đến ngã tư
Cầu Gỗ - Hàng Thùng , quận Hoàn Kiếm. Thời Pháp phố có tên là Rues des
Radeaux.
Vẫn còn gặp ít ỏi dǎm ba cái cột trụ trên nóc đầu
hồi, cùng khuôn cửa sổ tí tẹo của cǎn gác chồng diêm kiểu chuồng chim từ thế kỷ
trước còn lại như hồi âm của thời gian qua lớp ngói ta đã mốc thểch những thử
thách của thǎng trầm. Hàng Bè phố cổ, Hàng Bè phố ngắn, Hàng Bè lao động, mà một
trong những ngôi nhà kia còn dòng chữ trên "mi" nhà đắp con số 19 6, chữ số l
đầu tiên đã long mất nửa (nhà 6 l) , nó nằm cạnh ngôi nhà kiểu cũ của ông Giảng,
người có hàng phở và cà phê nổi tiếng bên phố Cầu Gỗ (số 88) đem tiền lãi phở về
mua nhà bên phố này.
Không hiểu sao mỗi lần qua Hàng Bè, tôi lại nhớ đến
câu chuyện kể có cô gái nào đó đanh đá chua ngoa, tự đánh mất chất thanh lịch
đôn hậu của mình bằng thái độ cong cớn với mấy anh học trò kinh thành, mà một
đêm ba mươi Tết, khi cô nghe tiếng gõ, ra mở cửa thì có mấy người khênh cỗ quan
tài sơn đỏ vào nhà, nói là ở đây vừa có người mới chết, phầi chôn chạy Tết, và
người mua đã trả tiền rồi . . . Cô ngất xỉu. Riêng ông thân sinh cô hiểu ra
ngay. Đích thị là Ba Giai, Tú Xuất đây, trả thù trận cãi nhau ban sáng, mà lỗi
do con gái ông, thái đ ộ quá hỗn hào, và cũng là để nhắc ông cách dạy con cái
trong nhà, cần noi gương hiền thục của cô gái bên Hàng Bạc , Hàn Bông... Chứ
quan tài thì thiếu gì, Hàng Sũ (hay Lò Sũ) gần kia. Tiếng để đời chứ đâu phải
trò chơi, dù Ba Giai, Tú Xuất có qúa tay chút ít nhưng cũng lưu lại trong bia
miệng về đường ǎn nết ở của người Hà Nội một thời chưa xa lắm.
Cũng hình
như tiếng trống múa lân đêm trung thu, tiếng xúc xắc xúc xẻ đêm giao thừa vẫn
còn vang đâu đây trên một đoạn phố ngắn này khi hai bên hàng phố, nhà thấp, thò
ra thụt và nhấp nhô, còn mái thì cao thấp như hình lưỡi cưa cưa vào nền trời
những đêm trǎng sáng. Hàng Bè là phố làm ǎn, phố của người buôn bán nhỏ, người
lao động khi nền vǎn minh phương Tây chưa có chỗ đứng vững vàng trong lòng người
vừa bị mất kinh thành.
Nhà báo lão thành Trịnh My, một phóng viên thể
thao có cỡ còn đang ở phố này, hẳn thấm sâ hồn phố quê hương vào mình chǎng? Nếu
một thời, phố Cầu Gỗ có bà Lang Huế nổi tiểng với các môn thuốc đông y thì gần
nhà bác Trịnh My, chỗ cũng gần ngôi đình cổ, cǎn nhà nhô hẳn ra đường, giầm chân
lấn mất vỉa hè và cống thoá nước, là nhà bố n mươi, nǎm mươi. Tên thực bà là gì'
ít ai biết, còn ít người biết hơn cái biệt danh Mụ Béo bán giải khát, nhưng thực
là bà Tộ, Tộ Béo. Chỉ nhớ, trên nhãn thuốc, có dòng chữ in hẳn hoi "Bà Lang
Trọc", và từ đó đã phát sinh ra một thành ngữ, một tiếng lóng tồn tại mấy chục
nǎm của cả một vùng rộng lớn ngoài Hà Nội, khi muốn nói thứ gì đó là thứ tốt,
thứ thật: "Đích thị bà Lang Trọc".
Số nhà 29 là đình Ngũ Hầu, thờ một vị
tướng đời Thục Phán. Ngũ Hầu nguyên là tên một vạn chài ngoài sông Hồng, khi
sông đổi dòng, lùi xa, con đê trên lòng phố Nguyễn Hữu Huân nay cũng lùi xa như
bây giờ, đình của vạn chài ấy được chuyển về đây, mà trong kháng chiến chống
pháp đình đã bị huỷ diệt.
Cũng như tưởng thấy có một phố Hàng Bè tấp nập
bến sông, bè mảng dập dềnh, đổ lên bến những tre nứa để làm lều lán, những bó lá
gồ mới hơi tai tái, những sọt củ nâu trên rừng xuôi về, những ống dang để chẻ
lạt bánh chưng, những bó lá dong xanh óng từ Tuyên Quang, Hà Giang Thái Nguyên.
. . cho người Hà Nội có tấm bánh chưng xanh óng ả, thơm đến kỳ
diệu...
Hàng Bè hết bến, lại buôn cau. Những sọt cau khổng lồ từ khắp các
địa phương chuyển về đây, cùng vỏ chay, vỏ quạch, trầu không. . . cho môi Hà Nội
thắm hồng cắn chỉ. Hàng Bè vì thế mà có tên Hàng Cau. Số nhà 15 từng là của gia
đình nhà vǎn Nhất Linh, một nhà buôn cau khá phát đạt một thời .
Có lẽ
trong thế kỷ trước, trong cơn giận dữ của thần hỏa, thiêu trụi một lúc hàng trǎm
nóc nhà tre lá, Hàng Bè được xây dựng lại, dựa và con đường đất hẹp , nên nhà
thò ra thụt vào khấp khểnh như thế, và tuổi các ngôi nhà cũng chỉ trên dưới trǎm
nǎm, mà nay ta đi qua, còn thấy ngói cổ, đầu trụ, mái thấp lè tè, tường long vữa
lở, trơ ra màu gạch Bát Tràng chịu đựng nắng mưa.
Ảnh phố Hàng Bè trước năm 1907
Không
hiểu những người thợ mộc chuyên ghép gỗ, trám sơn làm thứ thùng gỗ trụ tròn để
đựng nước mắm, gánh nước, chậu giặt, trú ngụ bên phố Hàng Thùng... những người ủ
tương cho nhà Cự Đà bên phố Nguyễn Hữu Huân. . . những người thợ đục cối đá xay
đỗ, xay bột, chạm bia đá bên Hàng Mắm... những người thợ trong ngõ Phất Lộc...
có sang phố Hàng Bè này ǎn bát tiết canh giải nhiệt có ngọn húng quế hình con
mắt, ǎn bát cháo lòng nóng rẫy, vào chợ Hàng Bè (chỗ ngã ba) mua chiếc bấc đèn,
vuông vải mộc, bưng lên bát bún bung dọc mùng vàng ươm... không nhỉ?
Cho
đến nǎm 1939 còn có mấy nhà vǎn nghèo (đương nhiên là nghèo nhưng vẫn sang) sau
một đêm chôn cất cái sầu mất bạn bên Gia Quất trong xóm cô đầu, dắt nhau đi bộ
qua cầu Sông Cái trở về, tinh mơ đến Hàng Bè, ǎn vội bát cháo chay, vì không đủ
tiền ǎn thêm món lòng dồi hay tràng, rồi kéo nhau xuống Ngã Tư Sở để kịp đưa ma
Vũ Trọng Phụng, cả những con ma sống và ma chết ấy đã làm rạng danh Hà Nội . Cho
đến những nǎm nǎm mươi, Hàng Bè vẫn khấp khểnh nhấp nhô, và mươi nǎm gần đây mới
có thêm chút màu xanh cây lá, loài dâu da xoan thứ cây dễ trồng, dễ mọc, cắm
cành cũng sống, thoang thoảng hương hoa dân dã, quả cho trẻ nhỏ ǎn vui, làm phố
thêm phần dịu bớt trưa hè che mát cho cô gái nào ngồi xuống ǎn quà bún chả chồ
đình xưa, hoặc ghé xe chọn mua cái xúc bánh phở bằng tre, cái rổ, bó đũa tre,
đôi đũa cả gần đấy... Dǎm nǎm lại đây, Hàng Bè đã rùng mình, không hiểu vui hay
buồn, khi đã có nhà nǎm, bảy tầng, thành khách sạn, nhà hàng, quán ǎn, phòng trọ
có chữ Tây chữ Mỹ...
Ngồi
trong quán cà phê đầu Hàng Mắm giáp Hàng Bạc, có thể nhìn xuyên suốt Hàng Bè đến
chỗ bán giày dép hàng triệu đôi nơi phố Hàng Dầu ở đầu phố bên kia.
Hàng
Bè còn giữ được ngôi nhà to (số 42) là nhà thầu khoán Trương Vǎn Vọng, xây
khoảng nǎm 1930, nay đã biến dạng nhiều, thành một trường tiểu học Bắc Sơn.
Khoảng 1940 có nhà làm món bánh gai ngon nổi tiếng (Đan Quế, số 24) cũng xây
được nhà khang trang. Nǎm 1950, số 16 là trường tư thục Nguyễn Huệ (trước khi
trường dọn ra Bờ Sông) của anh em nhà giáo Bù Hữu Sủng, Bùi Hữu Đột, những thầy
giáo giỏi thời ấy. Ngôi nhà này sau thành đại lý bán nước đá cây thời cả Hà Nội
thiếu nước đá trầm trọng, ít nhà có tủ lạnh, tư nhân thì không ai có quyền sản
xuất nước đá vì sợ "tốn điện" và lãng phí.( . )
Hàng Bè có một nhân vật,
có lẽ đáng nói kỹ hơn chút ít: Bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết, lớp bác sĩ đầu tiên của
trường thuốc Đông Dương, người thầy thuốc có mặt trong những đêm đầu kháng
chiến, trong Liên khu Một. Ông Thuyết sinh nǎ 1912 và mất gần đây (12- 12- 1995)
. Là mộ t người yêu nước, có tấm lò ng nhân hậu, thương yêu những ai nghèo khó.
Một lần ở Quảng Ninh, có thợ lò bị tai nạn vỡ lá lách, chủ Tây yêu cầu ông
Thuyết ghi vào bệnh án là "chết tự nhiên". Ông đã ghi: "Chết vì tai nạn lao
động" . Ông bị đổi đi luô n. Khi ở Vinh, ông phát thuốc cho người bị tình nghi
theo dõi là Cách mạng, ông bị đuổi hẳn. Về Hà Nội, ông mở phòng khám bệnh tư phố
Hàng Bè (số 48) và chính ông là người xây ngôi nhà to rộng số l0 phố này, còn
đến ngày nay. Ông từng là thầy giáo trường Thǎng Long trải qua nhiều chức vụ,
nhưng đáng nói hơn hết là ông từng có mặt trong Liên khu Một, trong đội Quyết
tử, từng chữa chạy cho thương binh, vệ quốc đoàn sao tròn, tự vệ sao vuông, từ
Hàng Buồm đến ngõ Phất Lộc, luồn từ nhà nọ sang nhà kia qua những ô cửa đục
thông tường. Ông cụ là một trong những chiến sĩ sau 60 ngày chiến đấu đã rút ra
qua gầm cầu Long Biên, theo kháng chiến suốt 9 nǎm, làm nhiều việc hữu ích giữ
nhiều chức vụ, và như nhà thơ Hoài Anh viết "Chín nǎm rừng lòng vẫn Thủ đô...".
Sau hòa bình, ông trở về Hà Nội, vẫn theo nghề thầy thuố c, kết hợp đông tây y,
đã công bố hàng chục công trình nghiên cứu khoa học, và tận tụy cứu nhân độ thế
đến cuối đời mình không mệt mỏi. Bà Thuyết hiện vẫn còn, không ở Hàng Bè nữa mà
ở với người con trai thứ ba của ông bà ở số 24 Bà Triệu. Nhưng cuộc đời bác sĩ
Thuyết, từ nhỏ đến lớn, sự nghiệp và công sức của ông, phần lớn đều gắn với phố
Hàng Bè nhỏ hẹp ấy, nhữn kỷ niệm đẹp đẽ một thời, đúng như một nhà vǎn nói: "Chỉ
những ai sống cao thượng, có ích cho nhân dân mới sống mãi trong lòng
người".
Phố Hàng Bè chỉ dài l72 mét, nói cách khá chỉ ba quãng cột đèn.
Những tên thôn,tên làng tên huyện xa xưa, ít ai còn nhớ, đã có các nhà nghiên
cứu ghi nó vào vǎn bản tàng lưu. Còn với người Hà Nội hôm nay, Hàng Bè là một
phố mang dáng dấp chút xưa cũ êm đềm, chút gần gũi cận đại đan xen, cùng với cái
quá mới, vừa nhảy vào những nhôm kính cao tầng... Phải chấp nhận thôi, như cả Hà
Nội đang trong đà đổi mới, có cái hay mà cũng có cái chưa hay, giống như ngay
sát Hồ Gươm linh thiêng mà người ta còn bán đất cho người ngoại quốc xây nhà cao
tầng thì trách gì một Hàng Bè nhỏ bé, lọt thỏm vào ngoài vòng khuất
nẻo.
Hàng Bè vẫn còn cái tên, nhắc lại một thuở nào. Còn người dân, những
ai gốc gác Hàng Bè sinh ra, lớn lên, gây dựng cơ nghiệp, sự nghiệp tạo ra bộ mặt
phố mình... hắn còn ít lắm, có thể đã lang bạt đến những nơi nào, khó mà xác
định. Sinh hoạt của Hàng Bè cũng đã khác xưa nhiều lắm. Không còn ai b uôn bán
cau tươi, cau khô trầu vỏ . Không còn thấy tre nứa hay lá gồi kể cả tầu lá gồi
còn cọng có thể làm quạt hay làm chổi đều được. Hàng Bè là một phố buôn bán nhỏ.
Thợ may, quần áo mốt mới mốt cũ hàng may sẵn, hàng bún chả , người bán vé xổ số,
hàng nan mây tre đan, hiệu cắt tóc, có nhà buôn đồ gốm sứ cả chậu hoa bình
hương. Thêm mấy buôn chỉ có chiếc mẹt, chiếc khay, buô n mấy bánh xà phòng, dǎm
chiếc khǎn bông, hộp kem rǎng, ít chun, cùng những thứ linh tinh khác, ngồi cạnh
đấy là bà bán vàng hương, những hương trầm, hương vòng, hương muỗi, cả tiền đô
la âm phủ do ngân hàng địa phủ phát hành nǎm 96 ...
Hàng Bè không giàu
như Hàng Đào, không sang bằng Hàng Gai, không nhiều di tích lịch sử như Hàng
Bông hoặc nhiều phố khác, không dài rộng như Đinh Tiên Hoàng, Quán Thánh... mà
chỉ là một gương mặt trung lưu, nếu không nói là có phần ngả sang lam lũ chút
ít.
Hàng ngày, Hàng Bè đang tấp nập, vì giữa phố, chỗ ngã ba với phố Gia
Ngư có một cái chợ, Chợ Hàng Bè. Gọi thế do thói quen, thực ra nó nằm gọn trong
lòng phố Gia Ngư suốt từ đầu này giáp với Hàng Bè sang đầu kia, gặp ngõ Hàng
Đào. Đầu tiên, mấy chục nǎm trước, nó chỉ là cái chợ xanh, chợ cóc, lâu dần hóa
ra cái chợ thực thụ, có cầu có quán mà dây dợ, bao tải, vải mưa , vả nhựa che
chắn bịt bùng, cùng rác thải, lầy lội cứ mỗi ngày thêm nhiều lên mãi, tất cả
những điều đó đang tái diễn ở nhiều chợ xanh khác, có nguy cơ biến thành chợ
chính thống, một đặc điểm của Hà Nội còn nhiều chất tùy tiện nông dân, cốt tiện
cho mình, không cần bất tiện cho ai .Chị hàng rong gánh một bên ít rau, một bên
là chiếc bu gà, những con gà được nhồi bánh đúc đến nứt cả diều... Chị hàng hoa
cứ đứng giữa đường mà mời khách... cô hàng hồng xiêm, bà bán rau bí đã tước sẵn
để trong túi ny lô ng... hầu như lòng đường không còn chỗ cho xe cộ. Hàng Bè
mang vẻ hệt như một đường phố của thị trấn. Đáng buồn hơn là niềm
vui.
Phố cổ đang tự lột xác hay người ta lột xác nó? Không dám kết luận,
bởi vì qui chế đề ra không thành luật pháp. Người dân thì coi nhà là sở hữu,
muốn làm gì thì làm, quyền tối thượng ở mình, gia đình mình, chứ không thể là ai
khác... Vì thế, mà Hàng Bè cũng như bao phố cổ khác đang đứng trước một nguy cơ
bị đổi thay diện mạo hoàn toàn, chưa có cách cứu chữa .
Có lẽ chỉ riêng
những cây dâu da xoan đang độ lớn là vô tư, cứ thả thứ hương thanh thanh thoang
thoảng vào đường phố, ru thời gian và êm đềm, xòe tán lá xanh non cho đường xưa
mát mẻ ...
Nhận xét
Đăng nhận xét